Khoa hoc thuc vat: Giâm cành thực vật các loài almon, red lauan, mayapis, tangile và white lauan.
Lấy cành 60 – 65 ngày tuổi từ gốc cúa các loài shorea almon, red lauan (S. negrosensis), mayapis (s. palosapis), tangile (s. polysperma) và white lauan (S. contorta) và dipterocarpus grandiflorus, xử lý với các hỗn hợp hormon khác nhau và với các nồng độ khác nhau: 6.000 ppm 1BA, 8.000 ppm IBA, Rootone F, 8.000 ppm IAA + 6.000 ppm IBA, và 7.000 ppm IAA + 7.000 ppm IBA. Chất lượng dung dịch được kiểm soát cẩn thận (paler và Alcober, 1991).
Cành giâm lấy từ cây khoẻ mạnh, mọc thẳng đường kính 5 – 10 cm của các loài s, negrosensis, s. contorta, s. palosapis, s. polysperma, D. grandiflorus. Hoặc lấy từ cây có đường kính 16 – 18,5 cm của loài Shorea almon chọn trồng cách ly, khi cao 1,3 m cho đốn ngang gốc rồi quét sơn đen lên vết đốn để tránh nhiễm nấm.
Sau khi đốn 60 – 65 ngày, thu hoạch chồi non phát triển 20 – 40 cm, đặt vào chậu nước rồi chuyển ngay đến vuờn ươm. Các gốc nhỏ 5 đến 10 cm vẫn tiếp tục phát triển chồi và có thể thu hoạch 4 vụ sau đó. Tại vườn ươm, cành giâm được bó thành từng bó, đặt nơi râm mát, tưởi nước thường xuyên và chờ xử lý.
Dùng kéo tỉa sắc cắt gốc cành giâm thành đoạn có ít nhất một hai lá tùy theo khoảng cách các đốt. cất bát phần đầu lá đến 60% để hạn chế thoát nước.
Ngâm đầu cắt vào dung dịch Benlate 2Ọ0 ppm 15 phút để ngừa nhiễm nấm. Sau đó ngâm đầu cắt vào hỗn hợp hormon phát triển rễ rồi đổ đầy đất cát. Để trong vườn nhân giống thoáng mát và phun bụi nước thường xuyên.
Với loài Shorea almon xử lý trong dung dịch 8.000 ppm IBA, Rootone F có kiểm soát (không có hormon), kết quả bén rễ tương ứng 88%, 54%, 57% sau 60 đến 63 ngàv trồng.
Sau 85 ngày, loài Shorea negrosensis xử lý với 6.000 ppm IBA, 8.000 ppm IBA, Rooton F và mẫu kiểm tra, kết quả cho thấy tỷ lệ bén rễ tương ứng 63%, 50%, 46% và 40%.
Kết quả tương đối tốt với loài Shoreư palosapis với 6.000 ppm IBA (41% bén rễ) và 8.000 ppm IBA (25% bén rễ). Cành giâm bén rễ tốt sau 90 ngày trồng.
Với loài s. polysperma xử lý trong axil indolebutyric nồng độ 6.000 ppm và 8.000 ppm kết quả bén rễ 33%, trong khi cành khống được xử lý chỉ đạt 22% bén rễ. Sau 90 ngày kể từ khi trồng, cành giâm phát triển rễ tốt.
Với loài Shorea contorta, xử lý kết hợp IAA nồng độ 8.000 ppm với IBA nồng độ 6.000 ppm và 1AA (7.000 ppm) với IBA (7.000 ppm) kết quả tương ứng là 15% và 10% bén rễ. Rễ phát triển tốt sau khi trồng 90 ngày. Riêng đối với loài Dipterocarpus grandiflorus sau 120 ngày đem trồng cây không phát triển rễ nữa.
Cành giâm phát triển rễ được trồng nơi có độ râm mát 50% trong vườn ươm cho đến khi đem trồng chính thức. Chăm sóc thường xuyên, giảm dần lượng nước cấp và tăng dần với ánh sáng mặt trời.